nguyễn bick
1.Theo dã sử Lĩnh Nam Chích Quái, trong trận xâm lăng Đại Việt của nhà Tống đầu tiên, 981, vua Lê Đại Hành đích thân dẫn quân chống đại binh Tống. Một thần nhân hiện ra trên sông Như Nguyệt (Tỉnh Bắc Ninh ngày nay) đọc lên bài thơ
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.
Quân Tống hoảng sợ và bỏ chạy. Đại Tướng nhà Đại Tống là Hầu Nhân Bảo, Giao Châu Lộ-Thủy Lục Kế Độ-Chuyển Vận Sứ sau đó bị tử vong.
2. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, do Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên và các sủ gia đời Trần soạn, nhà Tống liên kết vơi nước Chiêm Thành và Chân Lạp đánh Đại Việt lần thứ nhì vào năm 1076. Trong trận chiến tại sông Như Nguyệt, từ đền Trương Tướng Quân, có tiếng vang lên:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Trong trận chiến đó, Thái Úy Lý Thường Kiệt gây thiệt hại nặng nề cho quân Tống, do tướng Tống là Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy.
Bản dịch của sử gia Trần Trọng Kim
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
3.Sau Khi Bình Định Vương Lê Lợi dẹp tan vào năm 1428 sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi soạn soạn một bản tuyên cáo, khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của dân tộc Việt. Đây là bài Tuyên Ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam
Bình Ngô Đại Cáo - tiếng Hán Việt
Đại thiên hành hoá hoàng thượng nhược viết:
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo.
Duy, ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.[6]
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.
Chí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Ác Đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư hoạ khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.
Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điển vật chức thuý cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thủy bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phấn tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đới,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,
Thường đảm ngoạ tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí,
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhiên kỳ:
Đắc nhân chi hiệu mang nhược vọng dương,
Do kỷ chi thành thậm ư chửng nịch.
Phẫn hung đồ chi vị diệt,
Niệm quốc bộ chi tao truân.
Linh Sơn chi thực tận kiêm tuần,
Khôi Huyện chi chúng vô nhất lữ.
Cái thiên dục khốn ngã dĩ giáng quyết nhiệm,
Cố dữ ích lệ chí dĩ tế vu nan.
Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.
Dĩ nhược chế cường, hoặc công nhân chi bất bị;
Dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ.
Tốt năng:
Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.
Bồ Đằng chi đình khu điện xế,
Trà Lân chi trúc phá hôi phi.
Sĩ khí dĩ chi ích tăng,
Quân thanh dĩ chi đại chấn.
Trần Trí, Sơn Thọ văn phong nhi sỉ phách,
Lý An, Phương Chính giả tức dĩ thâu sinh.
Thừa thắng trường khu, Tây Kinh ký vị ngã hữu;
Tuyển binh tiến thủ, Đông Đô tận phục cựu cương.
Ninh Kiều chi huyết thành xuyên, lưu tinh vạn lý;
Tốt Động chi thi tích dã, di xú thiên niên.
Trần Hiệp tặc chi phúc tâm, ký kiêu kỳ thủ;
Lý Lượng tặc chi gian đố, hựu bạo quyết thi.
Vương Thông lý loạn nhi phần giả ích phần,
Mã Anh cứu đấu nhi nộ giả ích nộ.
Bỉ trí cùng nhi lực tận, thúc thủ đãi vong;
Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất.
Vị bỉ tất dị tâm nhi cải lự,
Khởi ý phục tác nghiệt dĩ tốc cô.
Chấp nhất kỷ chi kiến dĩ giá hoạ ư tha nhân,
Tham nhất thì chi công dĩ di tiếu ư thiên hạ.
Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm;
Nhưng mệnh Thạnh Thăng chi noạ tướng, dĩ du cứu phần.
Đinh vị cửu nguyệt Liễu Thăng toại dẫn binh do Khâu Ôn nhi tiến,
Nản niên thập nguyệt Mộc Thạnh hựu phân đồ tự Vân Nam nhi lai.
Dư tiền ký tuyển binh tái hiểm dĩ tồi kỳ phong,
Dư hậu tái điều binh tiệt lộ dĩ đoạn kỳ thực.
Bản nguyệt thập bát nhật Liễu Thăng vị ngã quân sở công, kế truỵ ư Chi Lăng chi dã;
Bản nguyệt nhị thập nhật Liễu Thăng hựu vị ngã quân sở bại, thân tử ư Mã An chi sơn.
Nhị thập ngũ nhật Bảo Định bá Lương Minh trận hãm nhi táng khu,
Nhị thập bát nhật Thượng thư Lý Khánh kế cùng nhi vẫn thủ.
Ngã toại nghênh nhận nhi giải,
Bỉ tự đảo qua tương công.
Kế nhi tứ diện thiêm binh dĩ bao vi,
Kỳ dĩ thập nguyệt trung tuần nhi điễn diệt.
Viên tuyển tì hưu chi sĩ,
Thân mệnh trảo nha chi thần.
Ẩm tượng nhi hà thủy càn,
Ma đao nhi sơn thạch khuyết.
Nhất cổ nhi kình khô ngạc đoạn,
Tái cổ nhi điểu tán quân kinh.
Quyết hội nghĩ ư băng đê,
Chấn cương phong ư cảo diệp.
Đô đốc Thôi Tụ tất hành nhi tống khoản,
Thượng thư Hoàng Phúc diện phọc dĩ tựu cầm.
Cương thi tái Lượng Giang, Lượng Sơn chi đồ,
Chiến huyết xích Xương Giang, Bình Than chi thủy.
Phong vân vị chi biến sắc,
Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang.
Kỳ Vân Nam binh vị ngã quân sở ách ư Lê Hoa, tự đỗng nghi hư hạt nhi tiên dĩ phá phủ;
Kỳ Mộc Thạnh chúng văn Thăng quân sở bại ư Cần Trạm, toại lận tạ bôn hội nhi cận đắc thoát thân.
Lãnh Câu chi huyết chử phiếu, giang thủy vị chi ô yết;
Đan Xá chi thi sơn tích, dã thảo vị chi ân hồng.
Lưỡng lộ cứu binh ký bất toàn chủng nhi câu bại,
Các thành cùng khấu diệc tướng giải giáp dĩ xuất hàng.
Tặc thủ thành cầm, bỉ ký trạo ngạ hổ khất liên chi vĩ;
Thần võ bất sát, dư diệc thể thượng đế hiếu sinh chi tâm.
Tham tướng Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ, tiên cấp hạm ngũ bách dư sưu, ký độ hải nhi
do thả hồn phi phách tán;
Tổng binh Vương Thông Tham chính Mã Anh, hựu cấp mã sổ thiên dư thất, dĩ hoàn quốc
nhi ích tự cổ lật tâm kinh.
Bỉ ký uý tử tham sinh,
nhi tu hảo hữu thành;
Dư dĩ toàn quân vi
thượng, nhi dục dân chi đắc tức.
Phi duy mưu kế chi cực kỳ thâm viễn,
Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.
Xã tắc dĩ chi điện an, Sơn xuyên dĩ chi cải quan.
Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,
Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.
Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ,
Vu dĩ tuyết thiên cổ vô cùng chi sỉ.
Thị do thiên địa tổ tông chi linh hữu,
Dĩ mặc tương âm hữu nhi trí nhiên dã.
Ô hô!
Nhất nhung đại định, Hất thành vô cạnh chi công;
Tứ hải vĩnh thanh,
Đản bố duy tân chi cáo.
Bá cáo hà nhĩ,
Hàm sử văn tri.
Bản dịch của Sử Gia Trần Trọng Kim
Tượng-mảng:
Việc nhân-nghĩa cốt
ở yên dân,
quân điếu
phạt chỉ vì khử bạo.
Như nước Việt ta
từ trước,
vốn
xưng văn-hiến đã
lâu.
Sơn-hà
cương-vực đã chia,
phong-tục bắc nam
cũng khác.
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần,
gây nền độc lập;
cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên,
hùng-cứ
một phương.
Dẫu
cường nhược có lúc
khác nhau,
song
hào-kiệt đời nào
cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất
vía,
Triệu Tiết nghe
tiếng giật mình.
Cửa
Hàm-tử giết
tươi Toa Đô,
sông
Bạch-đằng bắt sống Ô
Mã.
Xét xem cổ-tích,
đã có minh-trưng[1].
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính-sự
phiền-hà,
để trong nước
nhân-dân oán bạn.
Quân
cuồng Minh đã thừa
cơ tứ ngược[2],
bọn gian-tà còn bán nước
cầu vinh.
Nướng dân đen
trên ngọn lửa hung-tàn,
vùi con đỏ
xuống dưới hầm
tai-vạ.
Chước dối đủ
muôn nghìn khóe, ác chứa
ngót hai mươi năm.
Bại
nhân-nghĩa, nát
cả càn-khôn,
nặng khoa-liễm[3] vét
không sơn trạch.
Nào lên
rừng đào mỏ,
nào xuống
bể mò châu,
nào hố bẫy hươu
đen,
nào lưới dò chim
sả.
Tàn-hại cả côn-trùng
thảo-mộc; nheo-nhóc thay
quan quả
điên-liên[4].
Kẻ há
miệng, đứa nhe răng,
máu
mỡ bấy no-nê chưa chán.
Nay xây nhà, mai đắp
đất, chân tay
nào phục-dịch
cho vừa.
Nặng-nề về
những nỗi phu-phen,
bắt-bớ mất cả nghề
canh-cửi.
Độc-ác thay!
trúc rừng không
ghi hết tội;
dơ-bẩn
thay ! nước bể không rửa
sạch mùi.
Lẽ nào trời
đất tha cho, ai
bảo thần-nhân
nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-sơn dấy nghĩa,
chốn hoang-dã nương
mình.
Ngắm non sông căm
nỗi thế thù,
thề
sống chết cùng
quân nghịch-tặc.
Đau
lòng nhức óc, chốc là
mười mấy nắng mưa;
nếm
mật nằm gai, há
phải một hai sớm
tối.
Quên ăn vì giận,
sách lược-thao suy-xét
đã tinh;
ngẫm trước đến
nay, lẽ
hưng-phế đắn-đo càng
kỹ.
Những trằn-trọc
trong cơn mộng-mị,
chỉ
băn-khoăn một nỗi
đồ-hồi.
Vừa khi cờ
nghĩa dấy lên,
chính
lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn-kiệt như sao buổi
sớm,
nhân-tài như lá mùa
thu.
Việc bôn-tẩu thiếu
kẻ đỡ-đần,
nơi duy-ác hiếm
người bàn-bạc.
Đôi phen
vùng-vẫy,
vẫn đăm-đăm
con mắt dục đông[5];
mấy
thủa đợi-chờ,
luống đằng-đẵng
cỗ xe hư tả[6].
Thế mà
trông người, người càng
vắng-ngắt,
vẫn mịt-mờ
như kẻ vọng
dương[7];
thế mà tự
ta, ta phải lo toan,
thêm vội-vã như khi
chửng-nịch[8].
Phần thì
giận hung-đồ
ngang-dọc,
phần thì lo
quốc-bộ khó-khăn.
Khi Linh-sơn lương hết
mấy tuần;
khi Khôi-huyện
quân không một lữ.
Có lẽ trời muốn
trao cho gánh nặng,
bắt
trải qua bách chiết
thiên ma;
cho nên ta
cố-gắng gan bền,
chấp hết cả nhất
sinh thập tử.
Múa đầu
gậy, ngọn cờ phất-phới,
ngóng vân-nghê bốn cõi
đan hồ.
Mở tiệc
quân, chén rượu
ngọt-ngào,
khắp tướng-sĩ
một lòng phụ tử.
Thế
giặc mạnh, ta yếu mà ta
địch nổi;
quân
giặc nhiều, ta
ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng
hung-tàn,
lấy chí nhân
mà thay cường-bạo.
Trận
Bồ-đằng sấm
vang sét dậy,
miền
Trà-lân trúc phá tro
bay.
Sĩ-khí đã hăng,
quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ
mất vía chạy tan;
Phương Chính, Lý An tìm
đường trốn-tránh.
Đánh Tây-kinh phá tan
thế giặc,
lấy Đông-đô thu lại cõi
xưa.
Dưới Ninh-kiều máu
chảy thành sông;
bến Tụy-động xác đầy
ngoài nội.
Trần
Hiệp đã thiệt mạng,
Lý
Lương lại phơi
thây.
Vương thông hết
cấp lo lường,
Mã Anh
khôn đường cứu đỡ. Nó đã
trí cùng lực
kiệt,
bó tay không biết
tính sao;
ta đây mưu
phạt tâm công,
chẳng
đánh mà người chịu
khuất.
Tưởng nó
phải thay lòng đổi dạ,
hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu
còn kiếm kế tìm phương,
gây mầm
tội-nghiệt.
Cậy mình
là phải, chỉ quen đổ vạ
cho người;
tham công một
thời, chẳng bỏ bày trò
dơ-duốc.
Đến
nỗi đứa trẻ
ranh như Tuyên-đức[9],
nhàm võ không thôi; lại
sai đồ nhút-nhát
như Thạnh, Thăng,
đem dầu chữa cháy.
Năm đinh-mùi tháng chín,
Liễu Thăng từ Khâu-ôn
tiếng sang;
lại năm nay
tháng mười,
Mộc Thạnh
tự Vân-nam kéo đến.
Ta
đã điều binh giữ hiểm để
ngăn lối Bắc-quân;
ta
lại sai tướng
chẹn ngang để
tuyệt đường lương-đạo.
Mười tám, Liễu Thăng
thua ở Chi-lăng,
hai
mươi, Liễu Thăng
chết ở Mã-yên.
Hai-mươi-lăm, Lương Minh
trận vong;
hai-mươi-tám,
Lý Khánh tự vẫn.
Lưỡi
dao ta đang
sắc, ngọn giáo
giặc phải lùi.
Lại thêm
quân bốn mặt vây thành,
hẹn đến rằm tháng mười
diệt tặc.
Sĩ-tốt ra oai tì
hổ, thần-thứ đủ mặt trảo
nha.
Gươm mài đá, đá núi
cũng mòn; voi uống nước,
nước sông
phải cạn.
Đánh
một trận sạch không
kình-ngạc,
đánh hai trận
tan-tác chim-muông.
Cơn
gió to trút
sạch lá khô,
tổ
kiến hổng sụt toang đê
cũ.
Thôi Tụ phải quì mà
xin lỗi,
Hoàng Phúc tự
trói để ra
hàng.
Lạng-giang,
Lạng-sơn thây chất đầy
đường,
Xương-giang,
Bình-than máu trôi đỏ
nước.
Gớm-ghê thay!
sắc phong-vân
cũng đổi;
thảm-đạm thay!
sáng nhật-nguyệt phải
mờ.
Binh Vân-nam nghẽn ở
Lê-hoa, sợ
mà mất mật;
quân
Mộc Thạnh tan chưn
Cần-trạm,
chạy để thoát
thân. Suối máu Lãnh-câu,
nước sông
rền-rĩ;
thành xương
Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa.
Hai mặt cứu binh, cắm
đầu trốn chạy; các thành
cùng khấu,
cởi giáp xuống
đầu. Bắt tướng giặc mang
về,
nó đã vẫy đuôi phục
tội; thể lòng trời bất
sát,
ta cũng
mở đường hiếu
sinh. Mã Kỳ, Phương
Chính, cấp cho năm trăm
chiếc thuyền,
ra đến bể
chưa thôi trống
ngực.
Vương
Thông, Mã Anh, phát cho
vài nghìn cỗ ngựa, về
đến Tàu còn đổ mồ-hôi.
Nó đã sợ chết
cầu hòa, ngỏ lòng
thú-phục; ta muốn toàn
quân là cốt, cả nước
nghỉ-ngơi.
Thế mới là mưu-kế thật
khôn, vả lại suốt xưa
nay chưa có.
Giang-san
từ đây mở mặt,
xã-tắc từ đây
vững nền.
Nhật-nguyệt
hối mà lại minh,
càn-khôn bĩ mà lại thái.
Nền vạn thế xây nên
chăn-chắn,
thẹn
nghìn thu rửa sạch
làu-làu.
Thế là nhờ trời
đất tổ-tông khôn-thiêng
che-chở, giúp-đỡ
cho nước ta
vậy.
Than ôi!
Vẫy-vùng một mảng
nhung-y nên công
đại-định,
phẳng-lặng bốn
bề thái-vũ mở hội
vĩnh-thanh.
Bá-cáo xa
gần, ngỏ cùng nghe biết.
Bản dịch của cụ Bùi Kỷ
Tượng mảng:
Việc
nhân-nghĩa cốt ở yên
dân,Quân điếu-phạt chỉ
vì khứ bạo,
Như nước Việt
ta từ trước,
Vốn
xưng văn-hiến đã
lâu,
Sơn-hà cương-vực đã
chia,
Phong-tục bắc nam
cũng khác.
Từ Đinh,
Lê, Lý, Trần, gây
nền độc-lập,
Cùng Hán,
Đường, Tống, Nguyên,
hùng-cứ một phương,
Dẫu
cường nhược có lúc
khác nhau,
Song
hào-kiệt đời nào cũng
có.
Vậy nên
Lưu Cung sợ uy
mất vía,
Triệu Tiết nghe
tiếng giật mình,
Cửa
Hàm-tử giết tươi
Toa Đô,
Sông Bạch-đằng bắt sống
Ô Mã,
Xét xem cổ-tích,
Đả
có minh-trưng,
Vừa rồi
Vì họ Hồ chính-sự
phiền-hà,Để trong nước
nhân-dân oán bạn,
Quân
cường Minh đã
thừa-cơ tứ
ngược,
Bọn gian-tà còn
bán nước cầu vinh,
Nướng
dân đen trên ngọn lửa
hung-tàn,
Vùi con
đỏ xuống dưới
hầm tai-vạ.
Chước dối đủ
muôn nghìn khoé,
Ác chứa
ngót hai mươi năm.
Bại
nhân-nghĩa nát
cả
càn-khôn,
Nặng khóa-liễm
vét không sơn-trạch
Nào
lên rừng đào mỏ, nào
xuống bể mò
châu,
Nào hố bẫy hươu
đen, nào lưới dò chim
trả,
Tàn-hại cả côn-trùng
thảo-mộc,
Nheo-nhóc thay!
quan quả
điên liên
Kẻ há
miệng, đứa nhe răng, máu
mỡ bấy! no-nê chưa
chán,
Nay xây nhà, mai
đắp đất, chân tay
nào phục-dịch
cho vừa,
Nặng-nề về những
nỗi phu-phen,
Bắt-bớ mất
cả nghề canh-cửi.
Độc-ác
thay! trúc
rừng không ghi
hết tội,Dơ-bẩn thay!
nước bể khôn rửa sạch
mùi,Lẽ nào trời đất tha
cho,Ai bảo
thần-nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam-sơn dấy
nghĩa,
Chốn hoang-dã nương
mình,
Ngắm non sông căm
nổi thế thù,
Thề sống
chết cùng quân
nghịch-tặc,
Đau lòng
nhức óc, chốc là mười
mấy nắng mưa,
Nếm mật nằm
gai, há phải một hai sớm
tối,
Quên ăn
vì giận, sách
lược-thao suy-xét đã
tinh,
Ngẫm trước đến nay,
lẽ hưng-phế đắn-đo càng
kỹ.
Những
trằn-trọc trong cơn
mộng-mị,
Chỉ băn-khoăn
một nỗi đồ hồi.Vừa khi
cờ nghĩa dấy lên,
Chính
lúc qnân thù
đang thịnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn-kiệt
như sao buổi
sớm,Nhân-tài như lá mùa
thu,
Việc bôn-tẩu thiếu
kẻ
đỡ-đần,
Nơi duy
ác hiếm người
bàn-bạc.
Đôi phen
vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm
con mắt dục đông
Mấy thủa
đợi
chờ, luống
đằng-đẵng cỗ xe
hư-tả,
Thế mà trông
người, người càng vắng
ngắt, vẫn mịt-mù như kẻ
vọng dương,
Thế mà
tự ta, ta phải lo toan,
thêm vội-vã như kh chửng
nịch,Phần thì giận
hung-đồ
ngang-dọc,
Phần thì lo
quốc-bộ khó-khăn,Khi
Linh-sơn lương hết mấy
tuần,
Khi Khôi-huyện quân
không một
đội,
Có lẽ trời muốn
trao cho gánh nặng, bắt
trải qua bách chiết
thiên ma,Cho nên ta cố
gắng gan bền,
chấp hết cả nhất
sinh thập tử.
Múa đầu gậy ngọn cờ
phất-phới, ngóng
vân-nghê bốn cõi đan
hồ,
Mở tiệc quân chén
rượu
ngọt-ngào, khắp
tướng-sĩ một lòng
phụ-tử.
Thế giặc mạnh, ta
yếu mà ta địch nổi,
Quân
giặc nhiều, ta ít
mà ta được
luôn.
Dọn hay:
Đem đại
nghĩa để thắng
hung-tàn,
Lấy chí nhân mà
thay cường-bạo.
Trận
Bồ-đằng sấm vang
sét dậy,
Miền Trà-lân
trúc phá tro bay,
Sĩ-khí
đã hăng,Quân-thanh càng
mạnh.
Trần Trí,
Sơn Thọ, mất vía
chạy tan.
Phương Chính,
Quí An tìm đường
trốn-tránh.
Đánh Tây-kinh
phá tan thế
giặc.
Lấy Đông-đô thu
lại cõi xưa,Dưới
Ninh-kiều máu chảy thành
sông,
Bến Tụy-động xác
đầy ngoài nội.Trần
Hiệp đã thiệt
mạng,
Lý Lương lại phơi
thây.
Vương Thông hết cấp
lo-lường,
Mã Anh khôn
đường cứu-đỡNó
đã trí cùng lực
kiệt, bó tay không biết
tính sao,
Ta đây mưu phạt
tâm công, chẳng đánh mà
người chịu
khuất.
Tưởng nó
đã thay lòng đổi dạ,
biết lẽ tới lui,
Ngờ đâu
còn kiếm kế tìm phương,
gây mầm
tội-nghiệt.
Cậy mình là
phải, chỉ quen đổ vạ cho
người,
Tham công một thời,
chẳng bỏ bày trò
dở-duốc.
Đến nỗi đứa trẻ
con như Tuyên-đức, nhàm
võ không
thôi.
Lại sai đồ
nhút-nhát như Thạnh,
Thăng đem đầu chữa
cháy.
Năm Đinh-mùi tháng
chín,
Liễu Thăng tự
Khâu-ôn tiến sang,
Mộc
Thạnh tự Vân-nam kéo
đến.
Ta đã điều binh thủ
hiểm, để ngăn
lối Bắc-quân,
Ta
lại sai tướng chẹn
ngang, để tuyệt đường
lương-đạo.
Mười-tám, Liễu
Thăng thua ở
Chi-lăng,
Hai-mươi,
Liễu Thăng chết ở
Mã-yên,
Hai-mươi-lăm,
Lương Minh trận
vong,
Hai-mươi-tám, Lý
Khánh
tự vẫn,
Lưỡi dao
ta đang sắc,Ngọn giáo
giặc phải lùi,
Lại thêm
quân bốn mặt vây
thànhHẹn đến rằm tháng
mười diệt
tặc.
Sĩ-tốt ra oai
tì-hổ,Thần-thứ đủ mặt
trảo nha.
Gươm mài đá, đá
núi cũng mòn,
Voi
uống nước, nước
sông phải cạn.
Đánh một
trận sạch không
kinh-ngạc.
Đánh hai trận
tan-tác
chim-muông.
Cơn gió to
trút
sạch lá khô,Tổ kiến hổng
sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quì mà xin
lỗi,
Hoàng Phúc tự trói
để hàng.Lạng-giang,
Lạng-sơn, thây
chất đầy
đồng,
Xương-giang,
Bình-than, máu trôi đỏ
nước.
Ghê-gớm thay! sắc
phong-vân phải
đổi,
Thảm-đạm thay!
sáng nhật-nguyệt phải
mờ.
Binh Vân-nam nghẻn ở
Lê-hoa, sợ mà mất
mật.
Quân Mộc Thạnh
tan chưng
Cần-trạm, chạy để thoát
thân,
Suối máu Lãnh-câu,
nước sông rền-rĩ,Thành
xương Đan-xá,
cỏ nội
đầm-đìa.
Hai mặt
cứu-binh, cắm đầu trốn
chạy,
Các thành cùng
khấu, cởi giáp xuống
đầu.
Bắt tướng giặc
mang về, nó đã vẫy đuôi
phục tội,Thể lòng trời
bất sát, ta cũng mở
đường hiếu
sinh.
Mã Kỳ, Phương
Chính, cấp cho năm trăm
chiếc thuyền, ra đến bể
chưa thôi trống
ngực,
Vương Thông, Mã
Anh, phát cho
vài nghìn cỗ ngựa, về
đến Tàu còn đổ mồ-hôi.Nó
đã sợ chết cầu hòa, mở
lòng
thú-phục,
Ta muốn toàn
quân làm cốt, cả nước
nghỉ-ngơi.
Thế mới là
mưu-kế thật khôn,Vả lại
suốt xưa nay chưa
có.
Giang-san từ
đây mở mặt,
Xã-tắc từ đây
vững-bền.
Nhất-nguyệt hối
mà lại minh,
Kiền-khôn bĩ
mà lại
thái.Nền vạn thế
xây nên
chăn-chắn.
Thẹn ngìn thu
rửa sạch làu-làu.
Thế là nhờ trời đất
tổ-tông khôn-thiêng
giúp-đỡ cho nước ta
vậy.
Than ôi!Vẫy-vùng một
mảnh nhung-y,
nên công đại
định.
Phẳng-lặng bốn bề
thái-vũ, mở hội
vĩnh-thanh,
Bá cáo xa
gần,
Ngỏ
cùng nghe biết.